Đăng bởi: nghienson | Tháng Một 13, 2013

HỌ TRẦN – VỊ XUYÊN(ĐỔI TỪ HỌ NGÔ)-HUYỆN MỸ LỘC TỈNH NAM ĐỊNH

 

HỌ TRẦN – VỊ XUYÊN(ĐỔI TỪ HỌ NGÔ)

HUYỆN MỸ LỘC TỈNH NAM ĐỊNH

NGUỒN GỐC

21 Ngô Nước (Ngô Lợi) Quản Lĩnh công, con trai Thanh Quốc công Ngô Khế,một trong sáu người “cư biệt quán”,ông lánh vào xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà ,sau dời qua làng Trung Thuỷ,định cư ở thôn Thổ Sơn xã Đan Liên,sau đổi là xã Trảo Nha trấn Thạch Hà.Ông bà nấu rượu nuôi lợn để sinh sống,

Được tặng phong Nghệ An Quản lĩnh.

Mộ hai ông bà táng ở dăm Nhà quan thôn Thổ Sơn.

                                          Thuỵ hiệu:

                                           Thuỷ tổ Nghệ An vệ, Chánh Quản Lĩnh công,  thuỵ Chính Nhân 

                                           phủ quân.

                                           Sinh Ngô Phúc Hải.  

 

22 Ngô Phúc Hải              Đô Tổng binh

                                           Bà cả người Trảo Nha,bà thứ người Hoa Viên cư ngụ xã Phú Điền.

Mộ được thiên táng ở chân núi Mã Yên Sơn (rú Rum) xã Phúc Lễ

huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An .

Thuỵ hiệu:

                                           Thái Nguyên trấn Đô Tổng binh sứ ty,Đô tổng binh Đồng tri Ngô

                                          Tướng công thuỵ Chính Đạo phủ quân.

                                          Sinh Ngô Phúc Hà Thuần trung Hầu.

 

23 Ngô Phúc Hà              Chủ bộ Thuần trung Hầu :

Mộ tại chân núi Mã Yên Sơn, xã Phúc Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An.

Thuỵ hiệu :

Yên Vương phủ Chủ bộ, tặng Thuần trung Hầu, thuỵ Giác Tính        

                               phủ quân.

                                          Bà cả người Trảo Nha sinh                   -Ngô Phúc Thanh,

Bà thứ người Hoa Viên sinh                -Ngô Phúc Điền Thuỷ tổ họ   Ngô Phú Điền, Hưng Phú, Hưng Nguyên, Nghệ An.

 

24 Ngô Phúc Thanh        Thái Bảo Vĩnh lộc Hầu :

Trấn thủ trấn Nghệ An,tước Vĩnh lộc Hầu, được mệnh danh

“Nam diện trường thành”,mất trước ngày Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê(1527).

Thuỵ hiệu :

Nghệ An xứ Đô Tổng binh sứ ty Đô tổng binh sứ, tặng phong Thái Bảo,  Ngô Tướng công, thuỵ Trung Túc phủ quân.

Sinh Ngô Cảnh Hựu. 

 

25 Ngô Cảnh Hựu           Thái bảo Thế Quận công

1520-1596                  Có tên Ngô Phúc Trừng,(vì kỵ huý ,đổi một thời gian).Có nhiều

chiến công đánh Mạc xếp hạng Nguyên công,phong”Luỹ đại

công thần  dữ quốc đồng hưu”.

Thuỵ hiệu:

Phụ quốc Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc Thượng tướng quân,

Bật nghĩa Doanh Ngô Tướng công, tự Minh Trứ,thuỵ Đôn Hậu phủ quân.

Ông xin về trí sĩ năm 1594.

Mất ngày 25 tháng 5 năm Bính Thân 1596,mộ ở thôn Chi Lễ xã Thái Hà.

Có ba bà:Từ Quang,Diệu Hằng,Trịnh Thị  Diệu Minh, sinh :

-Ngô Phúc Tịnh                       Tứ Quận công,

-Ngô Phúc Hoành                   Hoành phố Hầu, họ Chỉ Châu,

-Khang trạch Hầu                   họ Cổ Bái,

-Câu kê Hầu                            họ Thạch Mỹ,

-Ngô Đăng Khản                   họ Hà Linh,

-Ngô Thuận Tâm                    họ Trần, Vị Xuyên,

-Ngô Thị  Ngọc Nguyên         Thứ phi Chúa Trịnh Tùng

HỌ TRẦN VỊ XUYÊN

huyện Mỹ Lộc tỉnh  Nam Định

26   Ngô Thuận Tâm  Con trai thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu,quê quán Cổ Bái,nay

thuộc  huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.

Sinh con trai Ngô Tất Thắng ra thừa tự ở hai ấp Vị Xuyên và

Cầu Gia, nguyên của Quỳnh Hoa và Quế Hoa hai Công chúa

và hai Mãnh tổ Ngô Chí Hoà,Ngô Chí Trung.

Mộ hai ông bà song táng ở đất Mộc Tường cũ,nay thuộc xã

Thạch Ngọc huyện Thạch Hà,ở giữa Cổ Bái và Tự Cường,

mộ hiện vẫn còn .

 

27   Ngô Tất Thắng       Tri huyện Lập Thạch, ông ra thừa tự hai vị Mãnh tổ Ngô Chí

Hoà, Ngô Chí Trung và hai bà cô Quỳnh Hoa Công chúa, Quế

Hoa Công chúa, có hai ấp phong ở Vị Xuyên và Cầu Gia thuộc

huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định, sinh Ngô Tất Thông.

 

28   Ngô Tất Thông      Viên ngoại lang, sinh Ngô Tất Đạt

 

29   Ngô Tất Đạt           hiệu Hoạt giám Tiên sinh, sinh Ngô Tất Đoan

 

30   Ngô Tất Đoan        Quang hiếu điện tự thừa tiến cống Thị  lang, sinh Trần Xuân Huy

Phả cũ chú thích:”…Trong họ ta có ông Cống Sở, Vua sai ra dụ Tây Sơn.

Ông không dụ Tây Sơn, mà lại theo vua này, con cháu sợ liên luỵ, nên cải làm họ

Trần “.

Như vậy có thể đổi họ khi Gia Long  lên làm vua cả nước(1802).

 

31   Trần Xuân Huy      hiệu Diện Đạo Tiên ,sinh Trần Xuân Dương, Trần Xuân Sảng

32   Trần Xuân Sảng     sinh Trần Xuân Hinh

33   Trần Xuân Hinh     sinh Trần Xuân Hương

34   Trần Xuân Hương sinh Trần Xuân Quý

35   Trần Xuân Quý      sinh Trần Xuân Lộc

36   Trần Xuân Lộc       (mất 1958), sinh Trần Xuân Phong

37   Trần Xuân Phong   (ks) sinh một trai một gái

 

Ngô Tất Đoan có em trai không rõ tên, con cháu cũng đều đổi họ Trần, là chi 2

ông Xá Triện đời thứ 36.


Bình luận về bài viết này

Chuyên mục