HỌ TRẦN – VỊ XUYÊN(ĐỔI TỪ HỌ NGÔ)
HUYỆN MỸ LỘC TỈNH NAM ĐỊNH
NGUỒN GỐC
21 Ngô Nước (Ngô Lợi) Quản Lĩnh công, con trai Thanh Quốc công Ngô Khế,một trong sáu người “cư biệt quán”,ông lánh vào xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà ,sau dời qua làng Trung Thuỷ,định cư ở thôn Thổ Sơn xã Đan Liên,sau đổi là xã Trảo Nha trấn Thạch Hà.Ông bà nấu rượu nuôi lợn để sinh sống,
Được tặng phong Nghệ An Quản lĩnh.
Mộ hai ông bà táng ở dăm Nhà quan thôn Thổ Sơn.
Thuỵ hiệu:
Thuỷ tổ Nghệ An vệ, Chánh Quản Lĩnh công, thuỵ Chính Nhân
phủ quân.
Sinh Ngô Phúc Hải.
22 Ngô Phúc Hải Đô Tổng binh
Bà cả người Trảo Nha,bà thứ người Hoa Viên cư ngụ xã Phú Điền.
Mộ được thiên táng ở chân núi Mã Yên Sơn (rú Rum) xã Phúc Lễ
huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An .
Thuỵ hiệu:
Thái Nguyên trấn Đô Tổng binh sứ ty,Đô tổng binh Đồng tri Ngô
Tướng công thuỵ Chính Đạo phủ quân.
Sinh Ngô Phúc Hà Thuần trung Hầu.
23 Ngô Phúc Hà Chủ bộ Thuần trung Hầu :
Mộ tại chân núi Mã Yên Sơn, xã Phúc Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An.
Thuỵ hiệu :
Yên Vương phủ Chủ bộ, tặng Thuần trung Hầu, thuỵ Giác Tính
phủ quân.
Bà cả người Trảo Nha sinh -Ngô Phúc Thanh,
Bà thứ người Hoa Viên sinh -Ngô Phúc Điền Thuỷ tổ họ Ngô Phú Điền, Hưng Phú, Hưng Nguyên, Nghệ An.
24 Ngô Phúc Thanh Thái Bảo Vĩnh lộc Hầu :
Trấn thủ trấn Nghệ An,tước Vĩnh lộc Hầu, được mệnh danh
“Nam diện trường thành”,mất trước ngày Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê(1527).
Thuỵ hiệu :
Nghệ An xứ Đô Tổng binh sứ ty Đô tổng binh sứ, tặng phong Thái Bảo, Ngô Tướng công, thuỵ Trung Túc phủ quân.
Sinh Ngô Cảnh Hựu.
25 Ngô Cảnh Hựu Thái bảo Thế Quận công
1520-1596 Có tên Ngô Phúc Trừng,(vì kỵ huý ,đổi một thời gian).Có nhiều
chiến công đánh Mạc xếp hạng Nguyên công,phong”Luỹ đại
công thần dữ quốc đồng hưu”.
Thuỵ hiệu:
Phụ quốc Công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tây quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc, Thiếu bảo Thế Quận công, gia phong Thái bảo Thượng Trụ quốc Thượng tướng quân,
Bật nghĩa Doanh Ngô Tướng công, tự Minh Trứ,thuỵ Đôn Hậu phủ quân.
Ông xin về trí sĩ năm 1594.
Mất ngày 25 tháng 5 năm Bính Thân 1596,mộ ở thôn Chi Lễ xã Thái Hà.
Có ba bà:Từ Quang,Diệu Hằng,Trịnh Thị Diệu Minh, sinh :
-Ngô Phúc Tịnh Tứ Quận công,
-Ngô Phúc Hoành Hoành phố Hầu, họ Chỉ Châu,
-Khang trạch Hầu họ Cổ Bái,
-Câu kê Hầu họ Thạch Mỹ,
-Ngô Đăng Khản họ Hà Linh,
-Ngô Thuận Tâm họ Trần, Vị Xuyên,
-Ngô Thị Ngọc Nguyên Thứ phi Chúa Trịnh Tùng
HỌ TRẦN VỊ XUYÊN
huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định
26 Ngô Thuận Tâm Con trai thứ Thế Quận công Ngô Cảnh Hựu,quê quán Cổ Bái,nay
thuộc huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.
Sinh con trai Ngô Tất Thắng ra thừa tự ở hai ấp Vị Xuyên và
Cầu Gia, nguyên của Quỳnh Hoa và Quế Hoa hai Công chúa
và hai Mãnh tổ Ngô Chí Hoà,Ngô Chí Trung.
Mộ hai ông bà song táng ở đất Mộc Tường cũ,nay thuộc xã
Thạch Ngọc huyện Thạch Hà,ở giữa Cổ Bái và Tự Cường,
mộ hiện vẫn còn .
27 Ngô Tất Thắng Tri huyện Lập Thạch, ông ra thừa tự hai vị Mãnh tổ Ngô Chí
Hoà, Ngô Chí Trung và hai bà cô Quỳnh Hoa Công chúa, Quế
Hoa Công chúa, có hai ấp phong ở Vị Xuyên và Cầu Gia thuộc
huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định, sinh Ngô Tất Thông.
28 Ngô Tất Thông Viên ngoại lang, sinh Ngô Tất Đạt
29 Ngô Tất Đạt hiệu Hoạt giám Tiên sinh, sinh Ngô Tất Đoan
30 Ngô Tất Đoan Quang hiếu điện tự thừa tiến cống Thị lang, sinh Trần Xuân Huy
Phả cũ chú thích:”…Trong họ ta có ông Cống Sở, Vua sai ra dụ Tây Sơn.
Ông không dụ Tây Sơn, mà lại theo vua này, con cháu sợ liên luỵ, nên cải làm họ
Trần “.
Như vậy có thể đổi họ khi Gia Long lên làm vua cả nước(1802).
31 Trần Xuân Huy hiệu Diện Đạo Tiên ,sinh Trần Xuân Dương, Trần Xuân Sảng
32 Trần Xuân Sảng sinh Trần Xuân Hinh
33 Trần Xuân Hinh sinh Trần Xuân Hương
34 Trần Xuân Hương sinh Trần Xuân Quý
35 Trần Xuân Quý sinh Trần Xuân Lộc
36 Trần Xuân Lộc (mất 1958), sinh Trần Xuân Phong
37 Trần Xuân Phong (ks) sinh một trai một gái
Ngô Tất Đoan có em trai không rõ tên, con cháu cũng đều đổi họ Trần, là chi 2
ông Xá Triện đời thứ 36.
Bình luận về bài viết này